Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (VADS) là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng dân sự. Thực hiện tốt việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động xét xử, giúp Tòa án xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đầy đủ nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Không chỉ vậy, chuẩn bị xét xử còn góp phần xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án, giúp Hội đồng xét xử có quan điểm đúng đắn để giải quyết vụ án nhanh chóng, dứt điểm và đảm bảo đúng pháp luật; hạn chế thấp nhất những sai lầm, thiếu sót trong xét xử và tình trạng án sơ thẩm bị hủy, sửa do vi phạm. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS còn có một số vướng mắc, bất cập như sau:
Về thời hạn và gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
Một là, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử chung cho các cấp xét xử; đồng thời, quy định thời hạn chuẩn bị xét xử là 02 tháng đối với án kinh doanh, thương mại (liên quan đến hoạt động của nhiều loại hình doanh nghiệp, thu thập chứng cứ ở nhiều nơi, nhiều nguồn khác nhau, quá trình thu thập chứng cứ, tống đạt văn bản tố tụng dài ngày,…) ngắn hơn các loại án còn lại. Điều này không phù hợp với yêu cầu thực tế.
Về vấn đề này, theo chúng tôi cần sửa đổi quy định của BLTTDS năm 2015 về thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ việc kinh doanh, thương mại theo hướng bằng thời hạn chuẩn bị xét xử vụ việc dân sự (04 tháng). Bên cạnh đó, cần tổng kết thực tiễn để sửa đổi thời hạn chuẩn bị xét xử vụ việc dân sự nói chung theo hướng phân loại cấp Tòa án.
Hai là, khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định chưa rõ ràng về gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.
Theo đó, chưa có văn bản hướng dẫn gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án có tính chất phức tạp, Thẩm phán thường mặc định thời hạn giải quyết vụ án bao gồm cả thời hạn gia hạn mà không có quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, không thông báo cho đương sự (đương sự không biết vụ án đã được gia hạn nên thường gửi đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết vụ án…). Hiện nay, hệ thống biểu mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng không có mẫu về quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.
Mặt khác, các thuật ngữ “sự kiện bất khả kháng”, “trở ngại khách quan” còn chưa cụ thể. Trong khi đó, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS (Nghị quyết số 05/2012) đã hết hiệu lực, mà chưa có văn bản thay thế, gây khó khăn cho Tòa án và Viện kiểm sát trong quá trình áp dụng pháp luật.
Do đó, chúng tôi đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sớm ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này theo hướng tiếp tục áp dụng tinh thần Nghị quyết số 05/2012 hoặc ban hành Nghị quyết mới hướng dẫn thi hành BLTTDS năm 2015, trong đó có nội dung giải thích đối với các thuật ngữ “lý do chính đáng”, “những vụ án có tính chất phức tạp”, “trở ngại khách quan”.
Về tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử
Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 chỉ quy định tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử đối với VADS đã tạm đình chỉ mà Tòa án tiếp tục giải quyết; theo đó, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án vẫn tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong một số trường hợp đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng hoặc khi nhập, tách vụ án.
- Trường hợp đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng: Một trong những lý do cần phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử là đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng. Sau khi đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, để đảm bảo vụ án được giải quyết chính xác, đúng quy trình thì Tòa án cần tiến hành thêm các bước thu thập chứng cứ và mở lại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải. Điều này sẽ dẫn đến khả năng một số Thẩm phán lạm dụng việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử, mặc dù pháp luật tố tụng dân sự không quy định về việc tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp này. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải thực hiện lập hồ sơ vụ án; xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác; xác minh, thu thập chứng cứ,… Tức là việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng là công việc Thẩm phán phải thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Do đó, nếu tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án từ khi Tòa án thông báo đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.
Trong trường hợp này, chúng tôi cho rằng, không nên tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử, vì: Pháp luật tố tụng dân sự không quy định và đây là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán khi thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Khi quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS tối đa là 06 tháng (kể cả gia hạn), nhà làm luật đã cân nhắc tất cả những sự kiện, tình huống có thể xảy ra và thời gian đó đủ để Thẩm phán giải quyết một vụ án (trừ trường hợp phải tạm đình chỉ theo Điều 214 BLTTDS năm 2015).
- Trường hợp nhập hoặc tách vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, nhằm đảm bảo cho việc giải quyết được nhanh chóng và đúng đắn các yêu cầu của đương sự thì “Tòa án có quyền nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật” và “Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật”.
+ Đối với trường hợp nhập vụ án. Hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp nhập vụ án, nên Thẩm phán cần linh hoạt vận dụng Điều 203 BLTTDS năm 2015 và khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 05/2012.
Theo đó, chúng tôi đồng tình với việc nhập những vụ án có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại khác nhau thì thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án sau khi nhập được xác định là thời hạn của vụ án còn thời hạn chuẩn bị xét xử dài nhất. Bởi lẽ, thông thường trước khi quyết định nhập một hoặc nhiều vụ án vào một vụ án khác thì Thẩm phán đã tiến hành các thủ tục tố tụng như xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ, củng cố hồ sơ,… Những vụ án đó đều đã trải qua thời gian chuẩn bị xét xử nhất định, vì vậy Thẩm phán đã phần nào nắm được nội dung và hướng giải quyết vụ án. Hơn nữa, mục đích của việc nhập vụ án là nhằm đảm bảo hiệu quả tố tụng, giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi và toàn diện, rút ngắn thời gian cho đương sự. Do đó, nếu xác định lại thời hạn chuẩn bị xét xử từ ngày ra quyết định nhập vụ án thì những vụ án đó lại bị kéo dài thêm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng không cần thiết phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày ra quyết định nhập vụ án, chỉ cần xác định thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án còn dài nhất và lấy đó là thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại của vụ án sau khi nhập.
+ Đối với trường hợp tách vụ án: Khi một vụ án mới được tách ra từ vụ án trước đó thì theo nguyên tắc, Tòa án phải vào sổ thụ lý mới đối với vụ án được tách ra. Theo đó, ngày thụ lý vụ án mới được xác định là ngày Tòa án ra quyết định tách vụ án. Do đó, thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án mới tách sẽ tính từ ngày Tòa án ra quyết định tách vụ án. Đối với vụ án cũ, sau khi được tách bớt một hay nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp thì những thủ tục tố tụng hoặc những chứng cứ đã thu thập trước đó vẫn còn nguyên giá trị sử dụng, thời gian để Thẩm phán tiến hành các công việc nêu trên là thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án đó, nên không có căn cứ để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Vì lẽ đó, thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án trước khi tách cũng chính là thời hạn chuẩn bị xét xử của nó sau khi tách.
- Trường hợp có yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập: Theo BLTTDS năm 2015, quyền yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nhưng phải trước ngày mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Vậy khi thụ lý yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập thì thời hạn chuẩn bị xét xử có được tính lại hay không?
Theo chúng tôi, nếu vụ án có thêm yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì vụ án có nhiều quan hệ, tranh chấp hơn so với vụ án đã được thụ lý từ đầu. Do đó, nếu không tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp này thì Thẩm phán khó có thể xem xét giải quyết vụ án đúng thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định.
Vì vậy, chúng tôi đề xuất bổ sung quy định tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử tại khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 đối với các trường hợp đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng; khi nhập, tách vụ án và khi thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập.
Về việc ban hành các quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Thứ nhất, đối với quyết định tạm đình chỉ
- Tạm đình chỉ theo điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015:
Hiện nay, số lượng án dân sự, hôn nhân gia đình ngày càng tăng, tính chất vụ việc ngày càng phức tạp, nhưng BLTTDS năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa đối với án dân sự, hôn nhân gia đình là 06 tháng tính từ ngày thụ lý (kể cả thời gian gia hạn), nên có một số vụ án Thẩm phán không thể giải quyết đúng thời hạn. Do đó, một số Thẩm phán áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 (đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án) để tạm đình chỉ VADS. Khi có căn cứ phục hồi, Tòa án ra thông báo tiếp tục giải quyết vụ án thì tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử theo Điều 203 BLTTDS năm 2015. Trong khi đó, pháp luật không quy định thời hạn tối thiểu đối với quyết định tạm đình chỉ nên vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
Bên cạnh đó, hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn việc xử lý cơ quan, tổ chức không cung cấp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án không đúng thời hạn theo quy định của BLTTDS năm 2015. Thực tế, có một số trường hợp các cơ quan, tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm, chậm trễ trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, Tòa án hay Viện kiểm sát. Tuy nhiên, pháp luật không có chế tài xử lý triệt để vấn đề này, từ đó có những vụ kiện kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, gây bức xúc cho đương sự.
Theo chúng tôi, cần có hướng dẫn cụ thể về việc ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS như sau: “Sau khi thụ lý vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu phát sinh căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VADS quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS, thì trước khi ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán phải thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 203 BLTTDS, trường hợp vì lý do tạm đình chỉ mà không thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều 203 BLTTDS thì Thẩm phán ra ngay quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án”. Đồng thời, cần quy định thêm thời hạn tối đa cho quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án nhằm bảo đảm cho vụ án được giải quyết kịp thời, không làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Qua đó, tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán được phân công trong việc đôn đốc các cơ quan có liên quan trả lời, cung cấp tài liệu, chứng cứ.
- Tạm đình chỉ theo điểm h khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015:
Trong thực tiễn công tác xét xử, một số trường hợp đương sự có đơn đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết VADS vì một trong những lý do như: Đương sự đi chữa bệnh; đi công tác nước ngoài; đang gặp sự cố bất khả kháng không thể có mặt theo triệu tập của Tòa án mà không thể ủy quyền cho người khác; đương sự cần có thời gian thu thập thêm chứng cứ; chưa có tiền để nộp chi phí định giá, chi phí tố tụng khác,… Liệu đây có phải là lý do chính đáng để đương sự yêu cầu tạm đình chỉ giải quyết vụ án không?
Theo tác giả, Tòa án căn cứ điểm h khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015: “Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án là có cơ sở. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn quy định trên, nên việc áp dụng pháp luật giữa các Tòa án chưa thống nhất.
Từ vấn đề trên, tác giả đề xuất bổ sung căn cứ để tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo Điều 214 BLTTDS năm 2015 như sau:
“1. Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS khi có một trong các căn cứ sau đây:
…
h) Theo yêu cầu của đương sự khi đương sự có lý do chính đáng;
i) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.
Ngoài ra, như thế nào được gọi là “lý do chính đáng” cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, tạo sự thống nhất khi áp dụng pháp luật tố tụng vào công tác giải quyết vụ án của Tòa án.
Thứ hai, đối với quyết định đình chỉ
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định rõ về thời điểm để Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan. Do đó, thực tế phát sinh vướng mắc: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nguyên đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, cụ thể là không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì có được căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án không? Do luật không quy định rõ ràng nên Thẩm phán có thể căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án hoặc có thể giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Theo chúng tôi, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, khi nguyên đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mà vắng mặt không vì lý do chính đáng thì được xem là đã từ bỏ quyền trình bày yêu cầu, tiếp cận, công khai chứng cứ, cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Vì vậy, Tòa án có quyền căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án.
Chúng tôi kiến nghị cần có hướng dẫn thống nhất về thời điểm ban hành quyết định đình chỉ với căn cứ này theo hướng: Cho phép Tòa án được đình chỉ giải quyết vụ án, cả trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.
Bên cạnh đó, BLTTDS năm 2015 chưa quy định trường hợp bị đơn rút yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu độc lập. Thực tế, trong một VADS có thể phát sinh nhiều quan hệ tranh chấp. Khi đó, thông qua quá trình thụ lý giải quyết của Tòa án thì đương sự biết được quyền và lợi ích chính đáng của mình không còn bị xâm phạm nên sẽ rút yêu cầu phản tố hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ rút yêu cầu độc lập. Tuy nhiên, không có quy định đối với trường hợp này nên Tòa án sẽ áp dụng điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Do đó, chúng tôi đề xuất bổ sung thêm quy định về đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015, cụ thể như sau: ... “c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập hoặc nguyên đơn đã được triệu tập…”./
Kiemsat.vn
Ý kiến bạn đọc